Thứ Năm, 27 tháng 5, 2021

Xe hơi, xe máy lỗi thời sẽ được thu hồi, tái chế thế nào?


Các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu ô tô, xe máy sẽ phải cam đoan phần trăm tái chế sản phẩm thải bỏ, đóng tiền vào Quỹ nhân viên an ninh môi trường.
Mua xe máy cũ cần sang tên đổi chủ thế nào?Xe máy cũ sẽ bị cấm lưu thông tại Singapore

 


Theo dự thảo Nghị định, các loại phương tiện ô tô, xe máy sau khi thu hồi sản phẩm thải bỏ phải tháo dỡ các bộ phận kim loại, nhựa, thủy tinh...; thu hồi các chất thải nguy hại như dầu nhớt, dầu bôi trơn, ắc quy

Theo dự thảo Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp (DN) sản xuất và nhập khẩu ô tô, xe máy phải cam kết ràng buộc tỷ lệ tái chế sản phẩm thải bỏ, đóng tiền vào Quỹ nhân viên an ninh môi trường… Dự ý kiến đề xuất định sẽ được ban hành và có hiệu lực từ năm 2022.

Xác minh tỷ lệ tái chế sản phẩm thải bỏ thế nào?

Bộ TN&MT đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật nhân viên an ninh môi trường về trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu.

Một nội dung đáng để ý trong dự thảo Nghị định là quy định yêu cầu DN cam đoan Xác Suất tái chế đối với các sản phẩm thải bỏ là ô tô, xe máy. Theo đó, các DN ô tô, xe máy phải cam kết và thực hiện việc tái chế đối với sản phẩm thải bỏ theo một mức tỷ lệ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên Thị Phần.

Cụ thể, đối với các loại phương tiện ô tô, xe máy, sau khi thu hồi sản phẩm thải bỏ phải tháo dỡ các bộ phận kim loại, nhựa, thủy tinh, cao su phục vụ tái chế. Bên cạnh đó, thu hồi các chất thải nguy hại (dầu nhớt, dầu bôi trơn, ắc quy, bảng mạch, linh kiện điện tử…) để xử lý chất thải phát sinh.

Về quy định này, đại diện Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô VN (VAMA) cho rằng, khác với các ngành hàng như bao bì, ô tô - xe máy hay đồ điện tử sẽ có thời gian vòng đời sử dụng rất lâu.

Bên cạnh đó, ví như ô tô, xét về điều kiện thực tế tại Việt Nam, đôi khi xe hỏng hoặc thậm chí hết niên hạn nhưng người dân có thể sẽ không mang đi thải bỏ mà tái sử dụng một trong những phần hoặc tổng thể toàn bộ trước khi thải bỏ.

Chẳng hạn như ô tô buýt “hết đát” có thể được tận dụng làm tiệm “cà phê xe buýt”; lốp xe cũ có thể đắp lại hoặc làm tường chắn ở những đoạn cua hay xảy ra tai nạn chứ không đem tái chế ngay... vấn đề đó đòi hỏi cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra một con số Cụ thể về yêu cầu cam kết tỷ lệ tái chế ô tô, xe máy.

“Các DN ô tô, xe máy luôn muốn đồng hành cùng Chính phủ xây dựng các quy định tái chế phù hợp nhằm giảm thiểu tác hại đến môi trường, bảo tồn tài nguyên. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu và điều tra và thảo luận với Hiệp hội ngành hàng để Xác định các vướng mắc, qua đó tính toán tỷ lệ tái chế cân xứng với điều kiện trong thực tiễn của Việt Nam, cũng như lộ trình áp dụng khả thi”, một thành viên của VAMA chia sẻ.

một số ít thành viên Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy nước ta (VAMM) cũng cho rằng, Phần Trăm tái chế của từng ngành hàng sẽ phải khác nhau bởi hệ số thải bỏ của xe máy không thể giống với bao bì. Vậy khi cơ quan có thẩm quyền quyết định tỷ lệ tái chế của từng ngành hàng thì có gộp chung với các ngành khác hay không?

Cần công khai, minh bạch sử dụng Quỹ nhân viên an ninh môi trường

Tại dự thảo Nghị định cũng quy định mức đóng góp tài chính của các DN vào Quỹ Bảo vệ môi trường dựa trên Phần Trăm mẫu sản phẩm phải tái chế bắt buộc/số số lượng sản phẩm đưa ra thị phần. Theo đó, hình thức được kiến nghị là đóng một khoản phí được tính toán trước theo mỗi ngành hàng dựa trên lượng tái chế chưa đạt mức tối thiểu theo quy định.

Việc quản lý và điều hành Quỹ này sẽ do Hội đồng EPR Quốc gia (Hội đồng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất). Thành viên Hội đồng sẽ bao gồm: Giám đốc Văn phòng EPR Quốc gia và đại diện các bộ có liên quan cùng DN đại diện Hiệp hội DN sản xuất, nhập khẩu, tái chế...

Liên quan đến tính minh bạch khi sử dụng, phân bổ Quỹ Bảo vệ môi trường trong việc hỗ trợ tái chế sản phẩm thải bỏ, dự thảo nghị định đã có quy định rõ về việc công bố số tiền thu được và việc sử dụng. Văn phòng EPR (chỉ có lãnh đạo là người nhà nước) là hệ thống của DN, do DN điều hành, chịu sự thống kê giám sát của Hội đồng EPR - chính là đại diện của các DN.

Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam sẽ phải đảm bảo tác dụng trong việc sử dụng tiền của DN cũng tương tự đảm bảo an toàn công khai minh bạch.

Hiện nay Quỹ đã có 10.000 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước cấp. Việc sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo yêu cầu bảo toàn vốn. Việc Chi phí tiền của Nhà nước phải đúng quy định, còn chi tiêu tiền của DN góp vào sẽ phải chịu sự kiểm toán.

Một số ý kiến của các DN ô tô, xe máy cũng cho rằng, hiện còn rất nhiều việc ở phía trước trong khi thời gian dự kiến ban hành còn quá ngắn (dự kiến ban hành và có hiệu lực từ tháng 1/2022) để đưa ra được giải pháp.

Như vậy, thời hạn mà Bộ TN&MT đưa ra để có được tỷ lệ tái chế của ngành sẽ tương đối khó thực hiện nên cần có lộ trình cũng như hướng dẫn thực hiện các giải pháp sau khi nghị định có hiệu lực.

Theo dự kiến, VAMM và VAMA đã có kế hoạch dự án nghiên cứu tái chế, với phương châm đạt được 100% đồng thuận về công thức tính tỷ lệ tái chế bắt buộc và công thức đóng phí, tỷ lệ tái chế và mức đóng phí, phương pháp tái chế. Có thể tháng 11 - 12/2021 sẽ báo cáo công dụng nghiên cứu và điều tra và ý kiến đề nghị lên Bộ TN&MT.

Theo Cục Đăng kiểm VN, hiện cả nước có hơn 220.000 xe hết niên hạn sử dụng, trong đó hơn 170.000 xe tải và gần 53.000 xe chở người. Riêng năm 2020, cả nước có gần 16.500 ô tô hết niên hạn sử dụng. Điều đáng nói là rất ít chủ các xe này chấp hành quy định nộp lại biển số và đăng ký xe cho cơ quan điều hành.

Theo Báo Giao thông
_______________________
Xem thêm:
Nguyên nhân và cách xử lý nhanh chóng, hiệu quả hiện tượng ô tô quá nhiệt

Thứ Hai, 24 tháng 5, 2021

Đánh thuế căn hộ dịch vụ cho thuê, nhà đầu tư "tháo chạy"?

Đánh thuế căn hộ cho thuê, nhà đầu tư bỏ chạy?

Theo các chuyên gia, mọi hoạt động kinh doanh hữu dụng nhuận đều phải đóng thuế và việc thu thuế căn hộ chung cư dịch vụ thuê mướn là hoàn toàn cần thiết và cân xứng, tuy nhiên, chắc chắn trong bối cảnh dịch bệnh như lúc này, phân khúc dịch vụ cho thuê sẽ đối diện nhiều thách thức, và nguy cơ NĐT rời bỏ thị trường đầu tư cho thuê là dễ xảy ra.

Điều tra khảo sát thời gian gần đây của VnXpress về việc khi giá thuê mướn nhà tăng, nhà đầu tư sẽ tiếp tục đầu tư hay rời bỏ để lựa chọn phân khúc khác với tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Hiệu quả cho thấy thêm có đến hơn 80% nhà đầu tư lựa chọn phương án rời bỏ.

Theo ông Phan Công Chánh, chuyên gia BĐS cá nhân, khi giá cho thuê bị trừ đi phần thuế, bài toán nhà đầu tư cho thuê quan tâm là tỷ suất lợi nhuận hiện giờ sẽ giảm, dẫn đến Thị Trường thuê mướn không còn hấp dẫn như trước đó, nhà đầu tư thuê mướn sẽ rút khỏi Thị phần.

Chia sẻ trên báo chí trước đó, ông Nguyễn Văn Đính, Phó chủ tịch Hội Môi giới bất động sản VN cho rằng, mọi hoạt động kinh doanh bổ ích nhuận đều phải đóng thuế và việc thu thuế dịch vụ thuê mướn căn hộ chung cư là hoàn toàn cần thiết và cân xứng, nhưng vẫn không khỏi run sợ về những ảnh hưởng tác động tiêu cực đến Thị phần BĐS trước thông tin đánh thuế căn hộ cho thuê.


 -


Theo ông Đính, trong bối cảnh hiện giờ, hoạt động cho thuê căn hộ chưa mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư.

Tại Tp.HCM và Hà Nội, lợi nhuận từ việc dịch vụ thuê mướn căn hộ mang về công dụng rất thấp, thậm chí thấp hơn cả lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng.

Chẳng hạn, một căn hộ 100m2 có giá từ 4 - 5 tỉ đồng chỉ dịch vụ thuê mướn chỉ được 10 - 20 triệu đồng/tháng, đầu tư căn hộ cho mướn thực chất "thua" gửi ngân hàng.

Ông Đính cho rằng, bản thân kết quả của việc đầu tư căn hộ dịch vụ thuê mướn đã rất kém lôi kéo, giờ cộng thêm với mức thuế thuê mướn căn hộ 10%, chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận và suy nghĩ của các nhà đầu tư trên thị trường này. Hệ quả là Thị Phần BĐS không khuyến khích được các nhà đầu tư mua căn hộ kinh doanh, làm giảm lực cầu của Thị phần.

Vị chuyên gia này đề xuất có thể tạm hoãn thu thuế một thời điểm hoặc áp mức thuế 2 - 3% bởi cho thuê căn hộ đây chính là hoạt động kinh doanh bán lẻ, lợi nhuận thấp, không giống với hoạt động kinh doanh bài bản của các công ty, doanh nghiệp.

Chia sẻ về tác động ảnh hưởng từ câu chuyện thu thuế cho thuê, ông Nguyễn Hoàng, Giám đốc bộ phận R&D DKRA Vietnam cho rằng, việc đánh thuế căn hộ cho thuê

Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021

Nhà phố một mặt thoáng vẫn ngập tràn nắng gió nhờ giếng trời

Với giải pháp kiến trúc hợp lý, đặc biệt là những giếng trời; ngôi nhà dù chỉ có một mặt thoáng nhưng luôn luôn tràn trề nắng gió.

Công trình có dạng nhà phố, được xây dựng trên khu đất 125m2 ở TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, có ba bề tiếp giáp công trình khác và chỉ có một mặt thoáng ở phía trước. Yêu cầu của chủ nhà là tạo lập một môi trường sống thân cận thiên nhiên, thông thoáng, có nhiều cây xanh.

Theo bản kiến thiết, các kiến sư đã lùi phía trước để có một khoảng sân, cũng là tạo điểm nhìn. Ngôi nhà có cấu trúc 2 tầng phía trước và 3 tầng phía sau. Nhìn từ ngoài, ngôi nhà có hình thức hiện đại, đơn giản, trang nhã.

 Tầng 1 là không gian phòng khách và bếp – phòng ăn liên thông với nhau suốt từ ngoài vào trong. Cầu thang lên tầng 2 trải dài nép sang một bên. Cầu thang này có cấu tạo bản bê tông xây gạch vừa để tận dụng gầm thang làm phòng WC, vừa mượn lan can làm bức tường để treo tivi. Để tạo cảm giác lạnh ngắt, màu trắng được sử dụng là màu chủ đạo kết hợp với màu xám và màu nâu sáng của gỗ. Đồ nội thất rất dễ dàng cân xứng với đẳng cấp kiến trúc hiện đại.

Để tăng cường kết nối, tương tác giữa các thành viên và tạo nhiều không gian cho trẻ hoạt động, ngay chỗ lên cầu thang có một chỗ chơi của trẻ. Cách nhìn của chủ nhà và nhóm thiết kế kiến thiết là ở tầng nào cũng có chỗ cho trẻ chơi đùa, vận động.

Phòng bếp – ăn nằm phía sau nhà liền với khu vườn nằm dưới giếng trời sau nhà. Khu vườn được thiết kế nhiều tầng bậc tạo ra điểm khác biệt thú vị. Nơi đây luôn ngập cả nắng gió và cũng là nơi chơi đùa của trẻ gần cận với thiên nhiên.

Kế bên cầu thang ở giữa nhà là một giếng trời lớn. Cầu thang đi từ tầng 2 lên tầng 3 được thiết kế bằng - thép gỗ tạo sự thông thoáng và hệ kết cấu này như bay bổng trong không gian. Hệ mái được cấu tạo bằng những dầm bê tông gấp khúc và lợp kính tạo nên ánh sáng và bóng đổ lung linh trong nội thất. Hành lang nơi tầng 2 cũng rất rộng có khá nhiều cây xanh.

Phòng ngủ bố mẹ ở tầng 2 phía sau nhà mở ra giếng trời và hành lang bằng một vách kính lớn để kết nối không gian. Ánh nắng có thể chiếu vào tận trong phòng ngủ.

Nội thất phòng ngủ cũng dễ dàng, thống nhất trong toàn nhà: Tường và trần màu trắng, sàn màu xám và đồ gỗ sáng màu với hình thức đơn giản.

Bức tường thông ra giếng trời dùng gạch lỗ để tạo sự thông thoáng.

Màu xanh cây trồng điểm xuyết làm không gian thêm mát mẻ và tấp nập.

Khu vực giếng trời – cầu thang giữa nhà nhìn từ trên xuống; lúc nào cũng ngập tràn nắng gió.

Cầu thang và hành lang thép – gỗ dẫn lên tầng 3 phía sau nhà. Nơi đây là phòng thờ kết hợp với thư viện. Bức tường phòng thờ được cấu tạo từ những nan thanh mảnh gợi cảm giác nhẹ nhàng và nhắc lại Bức Ảnh mặt tiền ngôi nhà với bộ mái dốc.

Hệ trần gỗ ở phòng thờ gợi cảm giác gần gụi, ấm áp. Ánh nắng lan tỏa khắp nơi và những hiệu ứng ánh sáng là một trong những phần tạo ra nghệ thuật nội thất./.CTV Hà Thành/VOV.VN

>>> Nguồn: Căn nhà một mặt thoáng vẫn ngập tràn nắng gió nhờ cổng trời




 

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2021

Gia tăng xuất khẩu – bắt đầu từ logistics

Cùng với dịch vụ vận tải, dịch vụ logistics trở nên tân tiến chính là yếu tố then chốt  thúc đẩy cho ‘dòng chảy’ hàng hóa xuất khẩu được thông liền. Mặc dù vậy, đây vẫn đang là “điểm yếu” của nước ta.

Những bất cập về hạ tầng giao thông, kho bãi, các quy định pháp lý, cơ chế chế độ và quy hoạch cách tân và phát triển ngành… đang khiến ngành logistics kém lôi cuốn để thu hút đầu tư.

Loạt bài sẽ nhận diện nguyên nhân của rất nhiều bất cập nêu trên từ góc độ của chính các DN xuất khẩu, DN logistics để cùng các cơ quan chức năng đưa ra phương án tháo gỡ, thúc đẩy dịch vụ logistic trở nên tân tiến. 
 
Kỳ 1: Nhận diện những tinh giảm của logistics ở Việt Nam

Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết nối còn giảm bớt… cũng khiến chi phí lưu kho trong tổng chi phí logistics tăng cao.

Sự tăng trưởng của xuất khẩu Việt Nam những năm qua đem lại tiềm năng lớn cho ngành logistics. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém và chi phí logistics cao làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của hàng hóa và các doanh nghiệp VN. 

Theo Báo cáo Logistics nước ta 2020, dựa trên công thức phần trăm % của chi phí logistis tương đương với GDP phụ thuộc vào tổng chi phí logistics và tổng GDP, Công ty tư vấn ALG của Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính chi phí logistics theo GDP của Việt Nam năm 2018 khoảng 16,8%, tương đương giá trị khoảng 42 tỷ USD.

World Bank xếp logistics nước ta đứng thứ 39/160 quốc gia trên thế giới và thứ 3 trong ASEAN, chỉ xếp sau Singapore và Thailand, và tăng 35 bậc so với 2016.

Còn theo Niên giám thống kê vận tải và logistics của Ngân hàng Thế giới và Bộ GTVT năm 2018 chào làng vào tháng 5/2020 cho thấy, chi phí logistics trên lợi nhuận của doanh nghiệp trên toàn quốc chiếm 8,96% với các doanh nghiệp sản xuất và 9,7% doanh nghiệp phân phối, bình quân là 9,37% với các doanh nghiệp sản xuất và phân phối. trong những số ấy, chi phí vận tải vẫn là thành phần chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi phí logistics.

Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ; thiếu trung tâm logistics cấp quốc gia, thế giới tại khu vực kinh tế trọng điểm để triển khai đầu mối phân phối hàng hoá. Vận tải đa phương thức để kết hợp ưu thế của các phương thức vận tải cũng chưa phát triển kết quả ở VN.

Kết nối giữa các phương thức vận tải còn tiêu giảm vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến chi phí vận tải tại Việt Nam còn quá cao, thiếu tính cạnh tranh.

Nghịch lý: thừa - thiếu

Vận tải đường bộ chiếm thị phần chính trong vận tải hàng hoá tại Nước Nhà. Việc quá phụ thuộc vào đường bộ đối với vận tải hàng hoá là vấn đề không mới. Trong đề án tái cơ cấu ngành vận tải từ năm 2015, Chính phủ đã đặt kim chỉ nam đến năm 2020 sẽ giảm thị phần vận tải hàng hoá đường bộ xuống còn 54%.

Tuy nhiên, tại Hội nghị toàn quốc về Logistics (tháng 4/2018), thị phần vận tải đường bộ vẫn được ra mắt chiếm gần 80%.

Mặc dù hệ thống giao thông đường bộ đã được đầu tư từ rất lâu nhưng thực tiễn vẫn chưa phân phối được nhu cầu và tốc độ phát triển của cả nền kinh tế.

Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cho biết, nhiều cung đường chật hẹp, năng lực vận tải thấp, tình trạng kẹt xe thường xuyên diễn ra nên không thể sử dụng được cho vận tải hàng hoá nặng, như khoanh vùng cảng Cát Lái (TPHCM). Nhiều khu công nghiệp xây dựng xong nhưng chưa có đường giao thông hoặc bố trí quá xa hệ thống cảng biển, làm chi phí vận tải đội lên rất cao.

Chưa kể đến sự việc chi phí phi chính thức trong vận tải đường bộ còn cao do giới hạn về tải trọng cũng như khung giờ hoạt động vui chơi của xe tải chật chội so với nhu cầu vận chuyển của doanh nghiệp.

Nhiều trạm thu phí với mức cao hoặc đặt vị trí không hợp lý dẫn đến việc lái xe tìm cách vòng vào các đường nhỏ, cũ để ‘né’ trạm thu phí, gây tắc đường và xuống cấp trầm trọng các đường tỉnh lộ.

Với hơn 90% hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta thông qua cảng biển nhưng theo đại diện VLA, việc phân bổ cảng biển hiện giờ đang trong tình trạng “chỗ thừa, chỗ thiếu”.

Ví dụ, tại Đồng bằng sông Cửu Long (BĐBSCL) đang có khoảng 65% hàng nông sản, 70% hàng hoa quả xuất khẩu, mặc dù vậy, khu vực này thiếu cảng nước sâu cho nên hàng hoá xuất nhập khẩu đều phải qua các cảng biển tại TPHCM và Bà Rịa-Vũng Tàu.

“Nếu hàng hoá được xuất khẩu trực tiếp, chi phí logistics phát sinh trong vận chuyển hàng hoá sẽ được kéo giảm đáng kể. Đơn cử, giá cước vận chuyển gạo sẽ giảm khoảng 10 USD/tấn so với việc phải chuyển từ ĐBSCL về TPHCM bằng đường bộ”, đại diện VLA đánh giá.

Cùng quan điểm, đại diện Đồng Tâm Group (doanh nghiệp vừa có hàng hóa xuất khẩu, vừa đầu tư vào hệ thống cảng biển) phân tích, giờ đây do khu vực ĐBSCL chưa có hệ thống cảng biển cho nên 70 đến 80% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của ĐBSCL phải dồn hết lên cụm cảng TPHCM bằng đường bộ, làm tăng áp lực giao thông đường bộ trên QL1 và TPHCM, liên tiếp gây ra tình trạng kẹt xe, tai nạn giao thông.

“Chi phí hàng hóa tăng cao từ 170 đến 180 USD/container hoặc từ 7 đến 10 USD/tấn chi phí vận chuyển và lưu kho. thời điểm vận chuyển kéo dài, bất lợi đối với hàng nông sản và giảm lợi thế canh tranh của nông sản hàng hóa khoanh vùng đồng bằng sông Cửu Long”, vị này phân tích thêm.

cộng đồng Cảng biển nước ta nhận định, bây giờ ngoài cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện), cảng biển nước ta đang dần “không tân tiến” với xu thế container hoá của thế giới bởi tình trạng phân mảnh, các bến cảng thiếu sự liên thông.

Điển hình nhất là cụm cảng Cái Mép-Thị Vải. Hiện, các cảng container quốc tế khu vực Cái Mép-Thị Vải chỉ có chiều dài cầu cảng khoảng 600m. Trong khi đó, theo nghiên cứu của hãng support Alphaliner, dự kiến đến năm 2021, những tàu container sức chở đến 18.000 TEU sẽ chiếm khoảng 70% lượng tàu hoạt động trên tuyến Á-Âu. Như vậy, với quy mô cỡ tàu lớn, các cầu cảng ở Cái Mép-Thị Vải sẽ khó có thể đón 2 tàu mẹ cùng lúc còn nếu không mở rộng chiều dài bến.

Kết nối giao thông cũng là “điểm nghẽn” cải tiến và phát triển cảng biển. phần lớn các trục đường kết nối đến các cảng khu vực như Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, TPHCM có quy mô chưa tương xứng với kỹ năng cảng biển. Các cụm cảng Lạch Huyện, Cái Mép-Thị Vải, mặc dù được quy hoạch là cảng cửa ngõ, trung chuyển thế giới nhưng lại chưa có kết nối đường sắt, kết nối với đường thuỷ còn yếu, dẫn tới hàng hoá chủ yếu thông thương bằng đường bộ, các trục đường liên tiếp tắc nghẽn.

Vận tải đường sắt hiện ở đoạn khá khiêm tốn bởi thời điểm chạy tàu hàng hiện nay quá dài và chi phí còn cao so với vận tải biển, chưa khác biệt về khổ lồng so với chuẩn thế giới và thủ tục chuyển tải còn phức tạp.

Nhưng lý do cơ bản để đường sắt chưa thể thay thế đường bộ là việc cải tạo hệ thống đường sắt, nâng cấp tàu, hiện đại hoá phương tiện bốc dỡ… rất tốn kém và không mang đến hiệu quả ngay lập tức.

Vận chuyển hàng không chỉ chiếm phần rất nhỏ trong tổng trọng lượng hàng hoá vận chuyển của nước ta nhưng chiếm đến 25% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.

Đối với vận tải hàng không, bất cập lúc bấy giờ mới chỉ có 2 cảng hàng không quốc tế có trung tâm kho hàng hoá quốc tế là Tân Sơn Nhất và Nội Bài. VN chưa có hãng hàng không nào có máy bay chuyên chở hàng hoá, số đông hàng hoá đều đặt dưới bụng máy bay chở khách, khiến sản lượng hàng hoá vận chuyển bị tiêu giảm.

Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết nối còn hạn chế… cũng khiến chi phí lưu kho trong tổng chi phí logistics tăng cao. Quy mô và phạm vi dịch vụ các trung tâm logistics của Việt Nam không nhiều và quy mô nhỏ, chỉ phục vụ một số doanh nghiệp trong nơi khu công nghiệp hoặc 1 địa phương, chưa phát triển đến quy mô phục vụ 1 ngành hoặc 1 vùng kinh tế. Thiết bị xếp dỡ lạc hậu, không đồng bộ, làm chậm giai đoạn bốc dỡ, gây hỏng hóc hàng hoá.

 

Công ty tư vấn ALG của Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính chi phí logistics theo GDP của nước ta năm 2018 khoảng 16,8%, tương đương giá trị khoảng 42 tỷ USD.

Thủ tục chồng chéo

Về pháp lý, cho đến nay, quy định về kinh doanh dịch vụ logistics mới chỉ có Nghị định 163/2017/NĐ-CP (có hiệu lực từ 20/2/2018) quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Các quy định khác nằm rải rác ở những văn bản Luật khác và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, đại diện Cục Xuất nhập khẩu cho biết, hiệu quả tiến hành luật pháp về lĩnh vực logistics chưa đồng bộ. Đơn cử, khi rà soát với các cam kết của Hiệp định Thương mại dịch vụ thoải mái Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) thì Luật Hải quan Việt Nam về cơ bản tương thích với pháp luật hải quan các nước. mặc dù vậy, trên thực tế, kết quả đo thời gian giải phóng hàng hoá xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tổng thời khắc từ khi đăng ký tờ khai đến khi thông quan/giải phóng hàng thì thời gian của hải quan chiếm 28%, còn lại thời gian nhanh hay chậm phụ thuộc vào việc xử lý thủ tục của các cơ quan quản lý chuyên ngành có liên quan đến quá trình làm thủ tục hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.

Những kiểm tra chuyên ngành này lại liên quan đến quy định của các bộ, ngành khác nhau, trong đó tình trạng phổ biến tại các bộ điều hành chuyên ngành là danh mục hàng xuất, nhập khẩu quá tải, không rõ ràng và có nhiều cách giải thích khác biệt.

Có thể thấy, một trong những nguyên nhân làm kéo dài thời khắc giải phóng hàng hoá xuất, nhập khẩu dẫn đến tăng chi phí logistics là giữa các cơ quan quản lý đang thiếu sự phối kết hợp đồng bộ để kế thừa kết quả báo cáo, kiểm tra của nhau, dẫn đến sự việc doanh nghiệp phải tự khai báo, chờ kiểm tra nhiều vòng làm thời khắc thông quan hàng hoá bị kéo dài, gia tăng chi phí, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Quy mô doanh nghiệp nhỏ

Theo thống kê của VLA, lúc bấy giờ nước ta có khoảng 4.000 doanh nghiệp logistics chuyên nghiệp và có mạng lưới dịch vụ nước ngoài, trong đó 54% doanh nghiệp tập trung tại TPHCM.

Với số lượng doanh nghiệp gia tăng đáng kể, nguồn nhân lực sẵn có chưa thể đáp ứng kịp thời, tình trạng thiếu hụt nhân sự chất lượng cao, dẫn đến việc nhân lực ngành chưa được đào tạo bài bản về logistics, giảm bớt về chất lượng dịch vụ, rất khó cạnh tranh với các công ty lớn quốc tế…

nhìn bao quát, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics hoạt động ở quy mô vốn đăng ký nhỏ, số lượng lao động hạn chế. VLA đưa ra con số thống kê có tới 90% doanh nghiệp dịch vụ logistics tại VN có vốn điều lệ đăng ký dưới 10 tỉ đồng.

“Quy mô doanh nghiệp giảm bớt là một trong những rào cản khi cung cấp chuỗi dịch vụ logistics tác dụng, cạnh trạnh ngay cả trên thị trường nội địa, chứ chưa nói trên khoanh vùng và thế giới”, ông Đỗ xuân Quang, Phó Chủ tịch thường trực VLA nhìn nhận và đánh giá.

Một sự việc quan trọng cũng đã được ông Quang nêu ra trong bức tranh logistics nước ta là thói quen kinh doanh làm doanh nghiệp Việt mất đi ưu thế ngay chính “sân nhà”.

Ông Quang phân tích: Việt Nam chủ yếu vẫn luôn là gia công nên giá trị thực tế không cao, giá trị thu được chỉ khoảng 10% mỗi đơn hàng. Khi xuất khẩu, ta giao hàng đến mạn tàu (giá FOB), phía bạn hàng chỉ định hãng tàu và trả tiền vận chuyển. chính vì thế, xuất khẩu của Việt Nam dù có không ít bao nhiêu thì phần nhiều việc vận chuyển đều rơi vào tay những tập đoàn vận chuyển đa quốc gia.

“giữa những năm qua, Chính phủ đã có những chính sách nhằm thay đổi phương thức trên như thưởng cho các đơn hàng xuất khẩu theo giá CIF nhưng vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Chỉ nhìn vào khoảng 80% đơn hàng xuất khẩu giá FOB, 20% giá CIF cho thấy nhiều phần lợi nhuận của ngành đã lâm vào tình thế tay các tập đoàn nước ngoài ”, ông Quang nói.

Phan Trang - Thanh Thuỷ

(Chinhphu.vn)

>>> Nguồn: Thúc đẩy xuất khẩu – bước đầu từ logistics






 


 

Thứ Ba, 4 tháng 5, 2021

Phát hiện bãi gỗ lớn chìm trong lòng hồ Sê San

Tiến trình kiểm tra lòng hồ thủy điện Sê San (Gia Lai), lực lượng chức năng tìm thấy bãi gỗ lớn dưới mặt nước.

 
Gỗ không rõ nguồn gốc tại lòng hồ Sê San - Ảnh: H.H.


Ngày 30-4, ông Nguyễn Văn Hoan, phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Gia Lai, cho biết lực lượng chức năng của tỉnh vừa phát hiện một bãi gỗ chưa rõ nguồn gốc nằm rải rác dưới hồ Sê San thuộc địa phận xã Ia O, huyện Ia Grai.

Ông Hoan cho biết đoàn công tác đã đến các đảo nhỏ trong hồ Sê San kiểm kê bãi tập kết gỗ chưa rõ nguồn gốc xuất xứ này.

Tại đây, bộ đội biên phòng và kiểm lâm phát hiện hơn 100 lóng, hộp gỗ xẻ nằm dưới lòng hồ và hai bãi tập kết gỗ với 29 lóng, nằm trên một ốc đảo thuộc tiểu khu 334, xã Ia O.

Ông Hoan cho biết qua kiểm tra ban đầu, những người liên quan nói họ trục vớt gỗ dưới lòng hồ sau khi hồ thủy điện này tích nước để phát điện.

Theo đó, họ dùng tời bằng tay tự chế, lặn xuống đáy lấy gỗ lên. Những khúc gỗ này được họ tận dụng làm nhà, làm vó đánh cá, đóng thuyền. Các nhánh gỗ, củi nhỏ được cắt khúc để đốt than. 
 
Ngoài các bãi tập kết gỗ, đoàn kiểm tra phát hiện ba cáp tời thủ công làm bằng gỗ dùng để trục vớt gỗ và bảy lò than đã tạm dừng hoạt động.

Vị trí các bãi gỗ nằm cạnh sát vườn điều của hộ ông Trần Văn Tuấn, 1 trong bảy hộ gia đình đang sinh sống trên ốc đảo hồ Sê San. đó là những hộ hạnh phúc gia đình sinh sống chính bằng nghề đánh cá từ Cà Mau lên Gia Lai định cư.

Ông Nguyễn Văn Hoan cho biết hiện tại vẫn chưa kiểm kê hết vì vẫn còn một lượng gỗ dưới mặt nước.

"xuất xứ gỗ này người dân tận dụng hay do khai thác rừng trái phép phải chờ điều tra mới rõ được. Sở đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh, UBND huyện Ia Grai kết hợp điều tra nguồn gốc xuất xứ gỗ và các đối tượng liên quan", ông Hoan nói.
 

HUỲNH CÔNG ĐÔNG

>>> Nguồn:  Phát hiện bãi gỗ lớn nằm trong lòng hồ Sê San